Thực tế này được Đại diện Hiệp hội doanh nghiệp Hoa Kỳ (Amcham) tại TP.HN chỉ ra trong hội thảo thực hiện Nghị quyết 19 về cải cách quy định quản lý chất lượng sản phẩm và an toàn thực phẩm diễn ra tại TP.HN ngày 20-6.
Đại diện Amcham cho rằng quy trình kiểm tra an toàn thực phẩm hiện nay không hề phù hợp với các nỗ lực đơn giản hóa thủ tục hành chính cho doanh nghiệp của Chính phủ.
Theo vị này, hiện một sản phẩm đang sản xuất tại Việt Nam phải cõng rất nhiều giấy phép con chỉ xét riêng về nguyên liệu. Chẳng hạn, một chiếc bánh có đến 12 nguyên liệu, thời gian xin giấy phép mỗi nguyên liệu mất 30 ngày, vậy là tổng cộng mất hơn 300 ngày.
Vấn đề là các nguyên liệu này không phải là những thứ doanh nghiệp bán trực tiếp cho người tiêu dùng nhưng quy định vẫn bắt họ phải công bố tiêu chuẩn chất lượng cho cả nguyên liệu lẫn thành phẩm.
“Hiện nay các doanh nghiệp bị yêu cầu cấp giấy xác nhận công bố phù hợp với an toàn thực phẩm, trong khi yêu cầu này trái Luật An toàn thực phẩm cũng như Luật Quy chuẩn, Tiêu chuẩn thực phẩm”, đại diện Amcham nói.
Không chỉ phải xin giấy phép cho sản phẩm sau khi đã hoàn thành mà trong quá trình sản xuất, doanh nghiệp cũng phải xin giấy phép cho nguyên liệu bao gồm cả phụ gia thực phẩm…
"Quá tốn kém mà không cải thiện được vấn đề an toàn thực phẩm", vị này nhận xét.
Đại diện Amcham cho rằng cần loại bỏ thủ tục xin cấp giấy phép nhập khẩu đăng ký hợp quy các nguyên liệu phụ gia, bao bì nhập khẩu dùng cho sản xuất tiêu dùng nội bộ của doanh nghiệp mà không đưa ra thị trường.
Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng cho rằng cần loại bỏ quy định yêu cầu doanh nghiệp tự gửi mẫu kiểm nghiệm vì quy định này trái luật khi đó là trách nhiệm và vai trò của cơ quan Nhà nước.
Các chuyên gia tại hội thảo cho rằng các quy định về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa và an toàn thực phẩm Việt Nam hiện nay rất chồng chéo, thường đi vào tiểu tiết gây tốn kém cho doanh nghiệp nhưng hiệu quả vệ sinh an toàn thực phẩm lại không đáng kể.
Ông Phạm Thanh Bình, chuyên gia tư vấn Dự án USAID GIG, cho biết ngay cả trong kiểm tra chuyên ngành, tỷ lệ và số lượng lô hàng thuộc diện này vẫn là rất lớn.
Điều đó làm cho thời gian kéo dài, gây tốn kém hàng triệu USD, "thậm chí làm mất cơ hội kinh doanh của doanh nghiệp".
Ông Bình đề xuất cần giảm tỷ lệ các lô hàng nhập khẩu phải kiểm tra chuyên ngành tại giai đoạn thông quan từ 30 – 35% xuống còn 15%.
“Các doanh nghiệp cũng đang bức xúc vì việc lấy mẫu để kiểm tra quá nhiều. Cơ quan kiểm tra lấy mẫu rất lãng phí. Có những sản phẩm trọng lượng lớn vì kiểm tra một ít sau đó doanh nghiệp không thể dùng để sản xuất được nữa. Điều đó không ổn”, ông Bình nói.
Nhiều doanh nghiệp cho biết họ sẵn sàng tốn chi phí để tạo điều kiện cho cơ quan quản lý có thể kiểm tra tại nguồn, ở nước xuất xứ để tránh tình trạng "kiểm tra lắt nhắt" như hiện nay.
Trong thời gian tới, cơ quan quản lý sẽ hướng tới thay đổi cơ chế quản lý hàng nhập khẩu từ tiền kiểm sang hậu kiểm, theo bà Nguyễn Thị Mai Hương, đại diện Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng Việt Nam.
Theo bà Hương, cơ quan quản lý cũng khuyến khích tổ chức đánh giá sản phẩm hàng hóa nên triển khai đánh giá tại nguồn, không thực hiện kiểm tra chất lượng hàng xuất khẩu.
Theo ông Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương, các quy định máy móc và vô lý đã làm tăng gánh nặng chi phí cho doanh nghiệp và xã hội, khiến tổng chi phí logistics của Việt Nam chiếm đến 21% GDP. Trong khi đó, chỉ cần doanh nghiệp tiết kiệm được 10% chi phí logistics, GDP sẽ có thêm hàng tỉ USD. Ông Cung cho rằng giảm một ngày thông quan các sản phẩm nhập khẩu, doanh nghiệp tiết kiệm được 800 triệu USD |